Sự phát triển của khối DNTN đã bộc lộ nhiều vấn đề mà đáng lưu ý nhất là chất lượng tăng trưởng còn kém. Trong số các nguyên nhân, có những nguyên nhân về chính sách và việc thực hiện chính sách của Nhà nước.
Mới chỉ tháo gỡ rào cản
Một khu vực DNTN đã hình thành, đông đảo về số lượng, có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế trong thập niên qua. Ảnh: Lê Quang Nhật |
Theo một chương trình nghiên cứu, đánh giá hệ thống chính sách hỗ trợ DNTN gần đây nhất do Vietnam Economica, một tổ chức nghiên cứu tư nhân tại Hà Nội thực hiện, kết quả lớn nhất của các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đạt được thời gian qua mới dừng lại ở những cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh, điều kiện gia nhập thị trường. Đây là những cải cách góp phần lớn tạo ra sự bùng nổ về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới kể từ năm 2000 trở lại đây.
Hay việc đưa ra và sửa đổi các chính sách về ưu đãi đầu tư, tuy đạt được một số kết quả nhất định, nhưng rõ ràng là chưa đủ để hỗ trợ cho khu vực kinh tế này. Hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư mới tác động theo chiều rộng, như thúc đẩy gia tăng số lượng doanh nghiệp, đầu tư mở rộng, đầu tư vào địa bàn khó khăn...
Không có trong định hướng chính sách
Một số ngành công nghiệp được Nhà nước đầu tư nhiều nguồn lực hoặc bảo hộ đầu tư với định hướng “thay thế nhập khẩu” là các ngành công nghiệp nặng, và hướng vào các thành phần ưu tiên như khối doanh nghiệp nhà nước (dầu khí, đóng tàu…), FDI (chế tạo ôtô…). DNTN trong nước không được chuẩn bị và không có nguồn lực để tham gia vào các chương trình này. Sự thật là họ đã bị bỏ rơi.
Nhiều chính sách công nghiệp của Việt Nam vẫn nhằm ưu tiên cho một số thành phần doanh nghiệp thay vì cho cả một ngành hay tổng thể các doanh nghiệp. Chính việc phân định thành phần đã kìm hãm sự phát triển của DNTN, tạo ra xu hướng ngược lại là công ty tư nhân tìm cách “khoác áo” tập đoàn nhà nước như nhiều công ty đóng tàu tư nhân tìm mọi cách tham gia làm công ty con của Vinashin cách đây 3 – 4 năm.
Chính sách ưu tiên phát triển các tập đoàn nhà nước với kỳ vọng chúng sẽ trở thành các “quả đấm thép” của nền kinh tế đã hút hết các nguồn lực của xã hội (vốn, đất đai, thị trường), ảnh hưởng đến sự phát triển của các DNTN. Khi tạo ra, bằng cách lắp ghép cơ học, các tập đoàn, tổng công ty quá lớn thì cơ hội cho khu vực DNTN bị thu hẹp. Đặc biệt nguy hiểm là chính sách này tạo ra các lệch lạc về mặt chính sách như tạo ra hàng rào thuế quan để bảo hộ cho một ngành không có sức cạnh tranh hay đầu tư vào một số ngành không có tương lai.
Nhiều người vẫn nghĩ rằng, khối DNTN chưa sẵn sàng đầu tư vào những lĩnh vực như công nghiệp nặng. Nhưng, như chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từng đặt câu hỏi: “Cần phải xét đến vấn đề là, chúng ta đã tạo điều kiện cho họ tham gia chưa? Nếu chưa, thì làm sao có thể khẳng định là họ chưa sẵn sàng đầu tư?”
Đổi mới công nghệ: nhiều cản trở
Theo tính toán của nhóm nghiên cứu trên cơ sở số liệu của tổng cục Thống kê, cả nước hiện mới vỏn vẹn có 54 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chiếm 0,03% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Và cho tới nay mới chỉ có mười doanh nghiệp khoa học công nghệ được công nhận (2007). Tổng số cán bộ, công nhân làm việc tại các doanh nghiệp khoa học công nghệ này là 1.230 người, chiếm 0,02% tổng số lao động của các doanh nghiệp.
Từ năm 1993 đến đầu 2009, bộ Khoa học và công nghệ mới phê duyệt được 701 hợp đồng chuyển giao công nghệ (CGCN) và chủ yếu là hợp đồng thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Số lượng hợp đồng CGCN có kèm theo kiểu dáng công nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ cũng rất ít, chiếm khoảng 5% tổng số hợp đồng CGCN được phê duyệt và tập trung vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy. Từ 2001 đến nay, bộ Khoa học và công nghệ đã cấp chứng nhận doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao cho 12 dự án. Với khoảng 480 tổ chức khoa học – công nghệ ngoài công lập và trung bình mỗi tổ chức có khoảng mười nhà khoa học làm việc, hiện có khoảng 4.800 nhà khoa học đang phục vụ thường xuyên trong lĩnh vực kinh tế tư nhân. Trong năm năm (2004 – 2009), chỉ có 45% số doanh nghiệp đổi mới sản phẩm và 8% đổi mới quy trình sản xuất. Mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trung bình dưới 0,5% tổng doanh thu, còn rất thấp so với yêu cầu phát triển.
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay chưa tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp. Việt Nam vẫn còn duy trì bao cấp ở một số ngành, độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, làm cho nhiều doanh nghiệp có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Cách thức hỗ trợ đổi mới công nghệ của Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng chưa phù hợp với cơ chế thị trường, mang nặng tính xin – cho, quá trình thực hiện chưa minh bạch và chưa đảm bảo hiệu quả.
Rõ ràng, muốn phát triển một khu vực DNTN có chất lượng, có sức cạnh tranh cao và bền vững, ngoài việc giải quyết những vấn đề nội tại của khu vực này, cần cấp bách tháo gỡ các cản trở từ chính sách và việc thực hiện chính sách của Nhà nước. Nếu không thì cũng giống như yêu cầu một vận động viên nhảy cao nước nhà tại một kỳ thi quốc tế, với chiều cao và sức bật khiêm tốn, bảo vận động viên nhảy đi nhưng lại không cho chạy đà.
Lê Duy Bình – Đậu Anh Tuấn
sự phát, triển của, vấn đề, chính sách, thực hiện, của nhà, khu vực, số lượng, kinh tế, chương trình, nghiên cứu, hỗ trợ, tổ chức, tư nhân, kết quả, các doanh, đăng ký, thị trường, tạo ra, doanh nghiệp, đầu tư, một số, không có, công nghiệp, nhà nước, nguồn lực, bảo hộ, thành phần, ưu tiên, tham gia, công ty, tập đoàn, phát triển, lĩnh vực, đổi mới, công nghệ, khoa học, tổng số
PHT-Sáng ngày 2/10/2013, Tiến sỹ Mộc Quế đã trao tặng sách cho Thư viện Thành phố Hà Tĩnh. Tham dự buổi Lễ có đ/c Ngô Đức Huy UVBTV tỉnh uỷ - Bí thư Thành uỷ cùng các đ/c trong Thường trực Thành uỷ, lãnh đạo UBND thành phố cùng đông đảo hội viên người mù trên địa bàn Thành phố. Trong đợt này, Tiến...
Ý kiến bạn đọc